Nhận diện: “Luận điệu xuyên tạc cho rằng Luật An ninh mạng xâm phạm quyền tự do ngôn luận”

22/06/2022 04:11
Màu chữ Cỡ chữ
Luật An ninh mạng (ANM) năm 2018 (Luật số 24/2018/QH14) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2019. Qua 03 năm thực hiện đã mang lại nhiều hiệu quả thiết thực góp phần quan trọng xây dựng, bảo vệ môi trường mạng. Tuy nhiên một số đối tượng chống đối thường xuyên xuyên tạc cho rằng Luật đã “chống lại loài người”, “bịt miệng dân chủ”, “đàn áp bất đồng chính kiến”, “tạo rào cản kinh doanh”, “tăng chi phí cho doanh nghiệp”, “thêm giấy phép con”, “lạm quyền”, “cấm sử dụng Facebook, Google”... Ngày 05/11/2021, trên trang blog Việt Nam Thời Báo, đối tượng Trần Da Dũng tán phát bài “Luật ANM chỉ nhằm trảm những nhà bất đồng chính kiến”, nội dung xuyên tạc các điều trong luật cho rằng “Luật ANM xâm phạm các quyền tự do ngôn luận, cướp đi quyền sử dụng internet của người dân”; vu cáo Đảng “đàn áp những người bất đồng chính kiến”; tuyên truyền sai sự thật về việc giới văn nghệ sĩ làm từ thiện; kêu gọi người dân đặc biệt là thế hệ trẻ đấu tranh xóa bỏ Luật.

Đây là những thông tin hoàn toàn bịa đặt, xuyên tạc, với mục đích cản trở hoặc gây tâm lý hoang mang, nghi ngờ trong quần chúng nhân dân đối với chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về ANM. Thực tế Luật ANM không có những quy định nêu trên, không tạo rào cản, không tăng thủ tục hành chính, không cấp giấy phép con và không cản trở hoạt động bình thường, không có chuyện Luật ANM xâm phạm quyền tự do ngôn luận như một số phần tử vẫn rêu rao. Luật quy định những nội dung cơ bản về bảo vệ ANM đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; phòng ngừa, xử lý hành vi xâm phạm ANM; triển khai hoạt động bảo vệ ANM và quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân, cụ thể:

Quy định các khái niệm cơ bản và chính sách của Nhà nước về ANM; nguyên tắc và biện pháp bảo vệ ANM, bảo vệ không gian mạng quốc gia; hợp tác quốc tế về ANM; các hành vi bị nghiêm cấm về ANM; xử lý vi phạm pháp luật về ANM. Đây là cơ sở để xác định phạm vi đấu tranh, biện pháp áp dụng, các hành vi vi phạm và cách thức phòng ngừa, xử lý các hành vi này cũng như triển khai công tác nghiên cứu, hoàn thiện lý luận về ANM.

Quy định đầy đủ các hoạt động bảo vệ ANM đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia. Với các quy định về thẩm định, kiểm tra, đánh giá điều kiện, ứng phó, khắc phục sự cố ANM được quy định tại Chương II, hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được bảo vệ chặt chẽ từ bên trong. Với các biện pháp bảo vệ ANM, xử lý các hành vi tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, chiếm đoạt thông tin thuộc bí mật nhà nước, các hành vi chống, phá Nhà nước được quy định tại Chương I, Chương III, hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được bảo vệ từ bên ngoài. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng, thể hiện sự bảo vệ tương xứng với vai trò của hệ thống thông tin an ninh quốc gia.

Đưa ra các quy định nhằm tạo nền tảng pháp lý trong phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng tới an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức cá nhân trên không gian mạng, như soạn thảo, đăng tải thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng, làm nhục, vu khống; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; sử dụng không gian mạng để tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, chiếm đoạt bí mật nhà nước, bí mật công tác, thông tin cá nhân trên không gian mạng; sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự; tấn công mạng... Đây là hành lang pháp lý vững chắc để người dân có thể yên tâm kết bạn, trao đổi, buôn bán, kinh doanh hay hoạt động trên không gian mạng.

Tập trung quy định về triển khai hoạt động bảo vệ ANM một cách đồng bộ, thống nhất từ Trung ương tới địa phương, trọng tâm là các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị, quy định rõ các nội dung triển khai, hoạt động kiểm tra ANM đối với hệ thống thông tin của các cơ quan, tổ chức này. Kết cấu hạ tầng không gian mạng quốc gia, cổng kết nối mạng quốc tế cũng là một trong những đối tượng được bảo vệ trọng điểm. Với các quy định chặt chẽ cùng sự tham gia đồng bộ của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân, việc sử dụng thông tin để vu khống, làm nhục, xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác sẽ bị xử lý nghiêm minh; hành vi xâm phạm ANM sẽ được phát hiện, cảnh báo kịp thời. Các hoạt động nghiên cứu, phát triển ANM, phát triển công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, ứng dụng nhằm bảo vệ ANM, nâng cao năng lực tự chủ về ANM và bảo vệ trẻ em trên không gian mạng cũng được quy định chi tiết, là nền tảng pháp lý quan trọng triển khai công tác ANM hiện tại và tương lai.

Tạo cơ sở pháp lý quan trọng thực thi chính sách của Nhà nước về bảo vệ dữ liệu cá nhân, dữ liệu quốc gia trên không gian mạng. Để quản lý chặt chẽ, bảo vệ nghiêm ngặt dữ liệu của nước ta trên không gian mạng, Luật ANM đã quy định các doanh nghiệp trong và ngoài nước cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng internet và các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam có hoạt động thu thập, khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra phải lưu trữ dữ liệu này tại Việt Nam trong thời gian theo quy định của Chính phủ Việt Nam. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đấu tranh phòng, chống tội phạm trước các diễn biến phức tạp của hoạt động cung cấp dịch vụ xuyên biên giới, thương mại điện tử, kinh doanh tiền ảo, tiền điện tử thời gian qua.

Tạo cơ sở pháp lý cho công tác bảo đảm triển khai hoạt động bảo vệ ANM, xây dựng và hình thành lực lượng chuyên trách bảo vệ ANM đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế, ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực ANM chất lượng cao. Chú trọng giáo dục, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức về ANM cho cơ quan, tổ chức, cá nhân với mục tiêu tham gia không gian mạng an toàn, lành mạnh, hạn chế tối đa nguy cơ, tác động tiêu cực, phát huy tối đa hiệu quả. Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân khi tham gia hoạt động trên không gian mạng, tập trung vào việc xác định trách nhiệm của lực lượng chuyên trách bảo vệ ANM được bố trí tại Bộ Công an, Bộ Quốc phòng.

Như vậy, Luật ANM hoàn toàn không ngăn cản quyền tự do ngôn luận; không cấm công dân sử dụng các dịch vụ mạng xã hội như các thông tin xuyên tạc đưa ra mà thực tế là bảo vệ sự an toàn cho người dùng mạng. Chỉ những cá nhân vi phạm, những phần tử với ý đồ đen tối chống phá Đảng, Nhà nước mới ra sức xuyên tạc, tuyên truyền lệch lạc còn đại đa số công dân đều ủng hộ để Luật ANM thực sự đi vào cuộc sống góp phần xây dựng xã hội văn minh, đất nước phát triển./.

                                                                                       Lê Đình Lượng

Liên kết website